Theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam đến hết tháng 9, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 5,6 triệu lượt, giảm 5,9% so với cùng kỳ năm ngoái.

Chúng ta đang tự giết ngành du lịch nước nhà

Đối với người Việt trong nước mà nói, những căn bệnh trong ngành du lịch sắp liệt kê ra đây có lẽ chuyện bình thường vì nó xảy ra quá thường xuyên, và ở hầu hết mọi ngành nghề khác thì ngược lại, đối với khách du lịch nước ngoài nó lại là những trải nghiệm kinh hoàng mà họ không bao giờ muốn gặp phải trong tương lai.

Việt Nam có rừng vàng biển bạc, khí hậu bốn mùa rõ rệt, cảnh quan thiên nhiên ưu đãi cùng bề dày văn hóa lịch sử mà bất cứ ai trong dân tộc Việt cũng tự hào. Điều kiện phát triển du lịch thuận lợi, vậy tại sao số lượng du khách quốc tế đến Việt Nam lại giảm dần?

1. Thủ tục cấp visa chậm và phức tạp

Đây là một vấn đề từng được đưa ra bàn thảo trong nhiều cuộc hội đàm về phương hướng phát triển du lịch. Đối với người muốn đi du lịch quốc tế, thủ tục xin visa thông thoáng, nhanh gọn, thuận tiện là yếu tố đầu tiên và quan trọng để quyết định nên chọn điểm đến nào để du lịch. Đặc biệt, điểm đến nằm ở quốc gia không yêu cầu visa luôn là ưu tiên hàng đầu.

Đến nay, nước ta mới chỉ miễn cấp thị thực cho 7 quốc gia là Nga, Nhật, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Hàn Quốc, Phần Lan và 10 nước ASEAN, mới có quy định miễn thị thực 15 ngày cho du khách từ Anh, Itay, Đức, Tây Ban Nha trong khoảng tháng 7/2015 – 6/2016. Trong khi đó, một số quốc gia lân cận đã đơn giản hóa thủ tục, thậm chí còn có sự ứng dụng công nghệ cấp thị thực qua mạng. Singapore miễn thị thực cho công dân của 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, Thái Lan miễn thị thực cho hơn 50 quốc gia…

Thủ tục lâu và rối rắm gây tâm lý e ngại cho du khách. Đây là một hạn chế rất lớn việc thu hút khách đến Việt Nam.

2. Bất cập về thời gian thị thực

Một du khách Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam thổ lộ rằng ông ta muốn đến Việt Nam và làm một hành trình xuyên Việt đến tất cả các điểm du lịch trên đất nước. Thời gian ước chừng hơn 2 tháng. Tuy nhiên quy định mới về thời gian thị thực cho người nước ngoài ở Việt Nam lại chỉ gói gọn trong 15 ngày. Thủ tục lại quá rườm rà trong khi thời gian được phép ở Việt Nam quá ngắn, khiến du khách không thể thực hiện hết kế hoạch. Đây cũng là một lý do gây nên tâm lý e ngại của khách quốc tế đến Việt Nam.

3. Cơ sở phục vụ du lịch không phát triển

Trong hoạt động du lịch, cơ sở vật chất đóng một vai trò hết sức quan trọng . Sự phát triển của ngành du lịch gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật.

Tuy nhiên, điều này ở nước ta hiện nay vẫn còn rất kém. Rất nhiều cơ sở bị xuống cấp nặng nề, nhiều điểm du lịch cơ sở vật chất không đáp ứng đu nhu cầu của khách.

Ví dụ, du lịch Sa Pa rất hút khách Việt và quốc tế. Con đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai được đưa vào sử dụng càng làm cho lượng khách đến đây đông hơn. Nhưng số lượng khách sạn nhà nghỉ ở đây tăng chưa kịp nhu cầu, dẫn đến việc “cháy phòng” ở các thời điểm vào mùa cao điểm.

4. Thái độ phục vụ kém

Tình trạng chèo kéo khách, chém giá, ứng xử kém văn minh… là những yếu tố gây mất thiện cảm trong mắt du khách quốc tế. Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến sự thiếu hụt đội ngũ nhân viên phục vụ du lịch thông thạo ngoại ngữ. Đây là một rào cản lớn khiến việc quảng bá du lịch của nước chậm phát triển.

5. Hệ thống giao thông như lối tắt đi tới tử thần

Nói tới hệ thống giao thông Việt Nam, tôi phải thừa nhận nó thật sự khiến người ta ngán ngẫm tới tận cổ khi đặt chân tới Việt Nam.

Đường xá không chỉ chật hẹp, bụi bặm, quy hoạch thiếu khoa học mà nó còn quá già nua và lạc hậu so với các nước khác trong khu vực. Điều này khiến việc di chuyển qua lại từ nơi này đến nơi khác của du khách trở thành nỗi ám ảnh trong những trải nghiệm của họ khi tới Việt Nam. Bên cạnh hệ thống giao thông yếu kém mang tính hệ thống, thì ý thức người tham gia giao thông Việt Nam với đặc tính vô trật tự, vô luật pháp khiến việc tham gia giao thông đối với khách du lịch nước ngoài là nỗi sợ không biết kêu cầu ai.

6. Những địa điểm du lịch thiếu ý tưởng và bản sắc dân tộc

Trong kinh tế thị trường thì cạnh tranh là một điều mà không một ngành nghề nào có thể tránh khỏi, nếu muốn thành công trong thế giới kinh doanh. Đối với ngành du lịch mà nói thì cạnh tranh luôn mang tầm quốc tế, vì thế anh muốn thu hút khách du lịch ngoài quốc thì ngoài những đặc điểm như mới lạ, hấp dẫn, còn phải có yếu tố đặc thù. Tính đặc thù ngành du lịch của mỗi quốc gia chỉ có thể có khi ngành du lịch đó biết cách khai thác bản sắc dân tộc mình. Thiếu bản sắc dân tộc chính là căn bệnh thứ hai của ngành du lịch Việt Nam, khiến du lịch Việt Nam mất sức cạnh tranh so với các nước trong khu vực.

Chúng ta không phủ nhận Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi với những danh lam thẳng cảnh đẹp mê hồn, nhưng càng nghĩ tới điều đó càng thấy buồn với cách quản lý và sử dụng những nguồn thu đó của chính quyền và người dân trong ngành nghề du lịch. Cách tổ chức, quy hoạch không chỉ thiếu khoa học, vô trách nhiệm mà còn là thiếu thẩm mĩ, thiếu ý tưởng và nhiều khi là ngớ ngẩn tới khó hiểu. Đã thế, hầu như mọi địa điểm du lịch ở Việt Nam đều thích bắt chước người nước ngoài về ý tưởng. Không bắt chước Tàu thì bắt chước Tây, Mĩ. Chính điều này khiến ngành du lịch Việt Nam trở nên không thú vị so với khách du lịch nước ngoài.

7. Cách hành xử thiếu tính chuyên nghiệp của những người làm trong nghề du lịch

Nếu bạn đã từng đặt chân tới Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản bản sẽ cảm thấy được sự tệ hại trong lối ứng xử của những người cung cấp dịch vụ du lịch ở Việt Nam. Khi vừa đặt chân tới Việt Nam tới khi kết thúc chuyến du lịch, khách hàng sẽ đón nhận được những cách hành xử hết sức hách dịch và quan liêu, đối xử bất công của mọi thành phần trong hệ thống cung cấp du lịch của Việt Nam. Từ những cán bộ nhân viên hải quan sân bay, bến xe, đến những nhân viên du lịch tại các đia điểm du lịch, và nhân viên cung cấp dịch vụ ăn uống, mua sắm.

Thái độ lợi dụng, và chặt chém khiến nó trở thành nét đặc thù trong ngành nghề du lịch Việt Nam. Hãy nhớ, cách hành xử chuyên nghiệp thật sự đó là luôn tạo ra không khí tự do cho khách hàng, nhưng ở Việt Nam thì điều này rất hiếm xảy ra. Khách du lịch luôn bị đeo bám từ những người bán hàng rong cho tới các bác tài, từ nhân viên bán hàng cho tới người cung cấp dịch vụ đi lại. Bên cạnh đó là thiếu trình độ ngoại ngữ, thiếu kỹ năng trong bán hàng. Những kỹ năng và trình độ tối thiếu đã khiến lối hành xử của những người tham gia hệ thống cung cấp du lịch ở Việt Nam trở nên xấu, xấu kinh khủng trong mắt khách du lịch nước ngoài.

8. Tệ nạn chắt chém trong buôn bán

Có lẽ điều khiến ngành du lịch Việt Nam thiếu sức cạnh tranh so với thế giới chính là chỉ nhìn thấy gần mà không biết nhìn xa. Bởi vì chỉ biết nhìn thấy cái lợi trước mắt, mà chúng ta sẵn sàng làm xấu mặt mình cho dù biết nó sẽ khiến khách một đi không trở lại. Tình trạng chặt chém khách du lịch nước ngoài chính là hệ quả của cái nhìn hạn hẹp và ngu ngốc đó.

Phí, vé tại các điểm du lịch tăng: Vé vào cửa và các phương tiện phục vụ di chuyển tại các điểm đến du lịch trong những năm gần đây luôn tăng cao. Ví dụ vé tắm bùn ở Nha Trang trước đây là 1,2 triệu đồng một người, hiện nay tăng lên 1,6 triệu đồng, vé đi tàu ra các đảo ở Hạ Long tăng từ 140.000 đồng lên 170.000 đồng…

Vé tăng, cơ sở vật chất phục vụ không tăng, gây nên tâm lý khó chịu. Đồng thời, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn sự đối nghịch về sự phát triển bền vững trong du lịch.

Chênh lệch trong giá cả giữa khách nội địa và khách quốc tế:
Ví dụ: Giá vé lặn biển (tại Hòn Mun, Nha Trang) cho người Việt Nam là 600.000 đồng một lần và 950.000 đồng hai lần. Nhưng vé cho người nước ngoài lại là 800.000 đồng một lần và 1,15 triệu đồng 2 lần.

Sự chênh lệch trong cách cư xử và chi phí phục vụ, trong khi chất lượng phục vụ không có sự khác nhau đã gây một sự khó hiểu, mất thiện cảm đối với khách quốc tế khi đến Việt Nam.

Từ những người cung cấp dịch vụ vận chuyển đến người bán đồ ăn uống, quần áo. Cứ thấy khách ngoại quốc là hét giá, hét thật cao, chặt thật mạnh khiến họ cảm thấy mình đang trở thành kẻ ngu ngốc và ngở ngẩn khi đặt chân tới vùng đất này. Nếu bạn đã từng đi du lịch ở nước ngoài, và bạn có đầu óc quan sát, bạn sẽ thấy giá cá luôn bình đẳng dù bạn là người ngoại quốc hay người bản địa.

9. Nhà vệ sinh công cộng là nổi kinh hoàng đối với khách du lịch

Khi đặt chân tới Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, bạn sẽ yên tâm khi có nhu cầu đại hay tiểu tiện. Hệ thống nhà vệ sinh công cộng ở những nước này không chỉ có mặt ở khắp nơi mà nó còn rất sạch sẽ, và hoàn toàn miễn phí. Còn ở Việt Nam, tôi phải thừa nhận hệ thống nhà vệ sinh công cộng chính là nổi ám ảnh đáng sợ đến tựng lớp da trên cơ thể. Không chỉ thiếu nhà vệ sinh mà còn phải mất tiền, đã mất tiền mà còn rất bẩn và đáng sợ. Phải nói những điều nhỏ nhặt như vậy nhưng nó khiến những khách du lịch nước ngoài phải do dự rất lớn nếu muốn đi du lịch ở Việt Nam.

10. Tệ nạn xả rác bữa bại vô ý thức của người Việt Nam

Bẩn, và bẩn khiến du lịch Việt Nam trở nên xấu xí trước mặt bạn bè thế giới. Việt Nam được ban tặng những bãi biển thơ mộng và đẹp đến mê hồn, nhưng nó đã bị làm hoen ố trước ý thức vệ sinh chung của người dân Việt Nam. Rác có mặt ở mọi nơi, từ bãi tắm đến những con đường, rác trở thành người bạn đồng hành trên lối đi bộ cũng như bãi biển. Rác khiến cái đẹp thành xấu, và nguy hiểm vì nó khiến bệnh tật phát sinh. Người nước ngoài quen với ý thức vệ sinh cao, rác thải được phân loại rõ ràng sẽ không thể, không thể hài lòng với những địa điểm vui chơi mà tràn ngập rác thải.

11. Thị trường Việt Nam tràn ngập các sản phẩm độc hại

Đi du lịch hay đi phượt đó chính là sở thích của hầu hết mọi người, đặc biệt là những công dân có nền kinh tế phát triển như Mĩ, Châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Và việc thưởng thức những đặc sản bản địa, mua những món quà lưu niệm tặng người thân vẫn luôn là một cơ hội để kinh doanh trong ngành du lịch. Nhưng thật tệ là Việt Nam lại tràn ngập các đồ ăn, thức uống cũng như các loại hàng hoá đầy chất độc hại trên thị trường. Nếu ngành du lịch Việt Nam muốn hướng tới những công dân của những nước có nền kinh tế phát triển, thì tình trạng này cần phải chấp dứt. Với trình độ dân trí cao và luôn có những yêu cầu cao trong các dịch vụ hàng hoá của khách du lịch nước ngoài, thì thực trạng nền kinh tế Việt Nam như thế nào sẽ không thể nào thoát khỏi sự hiểu biết của họ. Tôi dám chắc người nước ngoài họ còn hiểu biết sâu sắc về Việt Nam hơn chính người dân Việt Nam.

12. Một xã hội không an toàn

Có lẽ điều đáng sợ nhất mà không một khách du lịch nào muốn gặp phải trong chuyến du hí của mình, đó chính là không trở nên trắng tay chỉ trong một khoảnh khắc bất cẩn. Tệ nạn trộm cắp, móc túi chính là trải nghiệm khó quên nhất ở Việt Nam. Và nó khiến họ nói lời tự biệt Việt Nam, dù rất bị cuốn hút bởi những vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên Việt Nam. Bên cạnh nạn trộm cắp móc túi, là tệ nạn côn đồ hoành hành ở các tụ điểm du lịch. Tệ nạn trấn lột, xin đểu, cướp giật, khủng bố khách hàng do các nhóm côn đồ là một thực trạng xảy ra tại Việt Nam, đặc biệt là những khu vui chơi giải trí.

Ở Việt Nam nhưng nơi đáng sợ nhất là bến tàu, bến xe, đồn công an, các tụ điểm vui chơi, và các chuyến xe di chuyển. Nếu bạn đã từng đi du hí ở các nước phát triển, bạn sẽ nhận thấy các địa điểm như bến xe, bến tàu, và đồn công an luôn là nơi an toàn, hầu như không thấy những cách hành xử kiểu xhđ như ở Việt Nam. Không an toàn và không đảm bảo các tài sản của du khách, đó chính là những trải nghiệm khó mà quên được đối với những du khách quen sống với môi trường xã hội tự do và có trách nhiệm.

Chia sẻ Gocnongnghiep.com

BÌNH LUẬN

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.